Bệnh viêm khớp thiếu niên tự phát thể viêm cột sống dính khớp
Viêm khớp thiếu niên tự phát thể viêm cột sống dính khớp là một thể lâm sàng thường gặp thuộc nhóm viêm khớp thiếu niên tự phát. Bệnh xảy ra chủ yếu ở trẻ nam, được đặc trưng bởi tình trạng viêm điểm bám gân và viêm khớp. Ngoài ra bệnh còn gây ra những biểu hiện toàn thân như mệt mỏi, sụt cân và sốt nhẹ.
Viêm khớp thiếu niên tự phát thể viêm cột sống dính khớp là gì?
Viêm khớp thiếu niên tự phát thể viêm cột sống dính khớp là một bệnh viêm khớp thuộc nhóm viêm khớp thiếu niên tự phát. Bệnh còn được gọi là viêm điểm bám gân (ERA), đặc trưng bởi tình trạng viêm điểm bám gân và viêm khớp.
Bệnh có thể tiến triển ở cả hai giới, tuy nhiên chủ yếu xuất hiện ở trẻ nam. Bệnh thường khởi phát khi trẻ trên 6 tuổi hoặc bắt đầu ở lứa tuổi thiếu niên. Theo kết quả nghiên cứu, kháng nguyên HLA-B27 có liên quan mật thiết đến sự tiến triển của bệnh.
Nguyên nhân gây viêm khớp thiếu niên tự phát thể viêm cột sống dính khớp
Hiện tại vẫn chưa rõ nguyên nhân gây viêm khớp thiếu niên tự phát thể viêm cột sống dính khớp. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu cho thấy những yếu tố dưới đây có thể góp phần làm tăng nguy cơ phát sinh bệnh.
- Yếu tố kháng nguyên HLA-B27: HLA-B27 được xác định là một tiền đề của bệnh, có khả năng kích thích những phản ứng trong cơ thể và gây viêm.
- Yếu tố cơ địa: Bệnh dễ xảy ra hơn ở những trẻ có cơ địa nhạy cảm.
- Giới tính: Bệnh xảy ra chủ yếu ở giới tính nam. Tỉ lệ mắc bệnh ở nam và nữ là 9:1.
- Nhiễm trùng ngoài khớp: Một số tác nhân gây nhiễm trùng ngoài khớp như Samonella, Shigella, Yersinia, Chlamydia, Klebsiella… có khả năng gây viêm khớp phản ứng.
Triệu chứng của bệnh viêm khớp thiếu niên tự phát thể viêm cột sống dính khớp
Những triệu chứng ở khớp, điểm bám gân và triệu chứng toàn thân có thể phát sinh khi bệnh nhân bị viêm khớp thiếu niên tự phát thể viêm cột sống dính khớp. Cụ thể:
Viêm khớp
- Có cảm giác đau ở khớp, đặc biệt là khi về đêm.
- Cứng khớp làm hạn chế khả năng vận động vào mỗi buổi sáng.
- Viêm khớp xảy ra ở các khớp lớn chi dưới, viêm có thể xảy ra ở nhiều khớp hoặc ít khớp, viêm đối xứng hoặc không đối xứng. Thường gặp ở đầu gối, bàn chân và gót chân.
- Đôi khi có thể bị viêm khớp chi trên nhưng hiếm gặp.
- Viêm khớp cùng chậu có thể xảy ra ở một bên hoặc hai bên.
- Viêm, sưng, đau cột sống ít xảy ra trong giai đoạn khởi phát.
- Đau khớp cùng chậu, đau cột sống thắt lưng và viêm cột sống cổ C1 – C2 trong giai đoạn toàn phát. Triệu chứng này khiến trẻ thường đau nhiều ở mông và đau lưng dưới. Mức độ đau cải thiện khi hoạt động và nặng hơn khi nghỉ ngơi.
- Kết quả dương tính với Schöber test, biên độ giãn cột sống bị hạn chế.
- Khi bệnh tiến triển ở trẻ nhỏ, những tổn thương ở vùng trung tâm như khớp cùng chậu và cột sống thường xuất hiện muộn, tiến triển chậm và kín đáo.
Viêm điểm bám gân
Ngoài viêm khớp, viêm điểm bám gân cũng là triệu chứng đặc trưng của bệnh viêm khớp thiếu niên tự phát thể viêm cột sống dính khớp. Triệu chứng này thường xuất hiện ở gối và bàn chân.
Triệu chứng toàn thân
- Thường xuyên mệt mỏi
- Sút cân
- Sốt nhẹ
- Xuất hiện những biểu hiện hệ thống gồm hở van động mạch chủ, viêm mống mắt cấp tính (thường chỉ viêm ở một bên mắt, có thể tái phát nhiều lần)
- Viêm ruột mạn tính
- Gan lách hạch to (hiếm gặp)
- Viêm da ở bệnh nhân bị viêm khớp phản ứng thuộc hội chứng Reiter.
Chẩn đoán viêm khớp thiếu niên tự phát thể viêm cột sống dính khớp
Những kỹ thuật trong chẩn đoán viêm khớp thiếu niên tự phát thể viêm cột sống dính khớp gồm:
1. Chẩn đoán lâm sàng
- Bệnh viêm khớp thiếu niên tự phát thể viêm cột sống dính khớp có thể được chẩn đoán thông qua những biểu hiện lâm sàng xảy ra ở điểm bám gân, khớp (khớp lớn chi dưới, khớp cùng chậu, cột sống)
- Kiểm tra mức độ viêm và đau trên các khớp để đánh giá mức độ ảnh hưởng của bệnh
- Kiểm tra sự linh hoạt và phạm vi chuyển động của các khớp
- Kiểm tra triệu chứng ngoài khớp
- Kiểm tra tiền sử mắc bệnh.
2. Chẩn đoán cận lâm sàng
- Chụp X-quang xương khớp: Kết quả chụp X-quang giúp kiểm tra những bất thường và tổn thương ở các khớp, cột sống và xương cùng chậu. Cụ thể xuất hiện hình chồi xương tại chỗ gân bám, khuyết xương…
- Chụp X-quang các cơ quan khác: Kiểm tra khung chậu thẳng, tim phổi thẳng.
- Chụp cộng hưởng từ (MRI): Chụp cộng hưởng tìm kiếm những tổn thương nhỏ hơn ở các khớp.
- Xét nghiệm máu: Kiểm tra sự tăng/ giảm tế bào máu ngoại vi, tốc độ lắng máu, sự tăng/ giảm của protein C phản ứng.
- Xét nghiệm sinh hóa: Cortison máu (nếu cần), tổng phân tích nước tiểu, kiểm tra sắt huyết thanh, xác định nồng độ protein, albumin, AST, ALT, ure, creatinin, điện giải và đường.
- Siêu âm tim và điện tim: Siêu âm tim và điện tim tìm kiếm những bất thường, tổn thương van động mạch chủ, xảy ra ở dạng vôi hóa.
- Xét nghiệm HLA – B27: Xét nghiệm tìm kiếm kháng nguyên bạch cầu người HLA – B27.
3. Tiêu chuẩn chẩn đoán viêm khớp thiếu niên tự phát thể viêm cột sống dính khớp (kiểm tra thể viêm điểm bám gân)
Bệnh viêm khớp thiếu niên tự phát thể viêm cột sống dính khớp được chẩn đoán khi cả điểm bám gân và khớp đều bị viêm hoặc viêm điểm bám gân/ viêm khớp kèm theo ít nhất hai trong số những triệu chứng sau:
- Viêm khớp khởi phát sau 6 tuổi
- Tiền sử gia đình mắc một hoặc nhiều bệnh lý ở khớp liên quan đến kháng thể HLA-B27
- Kết quả dương tính với xét nghiệm kháng thể HLA-B27
- Có tiền sử hoặc đang bị đau cột sống và đau khớp cùng chậu kiểm viêm.
- Viêm màng bồ đào trước cấp tính.
4. Chẩn đoán phân biệt
Chẩn đoán phân biệt viêm khớp thiếu niên tự phát thể viêm cột sống dính khớp với viêm khớp thiếu niên tự phát thể hệ thống, viêm khớp thiếu niên tự phát thể đa khớp và một số thể viêm khớp tự phát thiếu niên khác.
Thông thường bệnh sẽ được loại trừ khi bệnh nhân có những bệnh cảnh sau:
- Người thân trong gia đình hoặc bản thân có bệnh sử vảy nến.
- Kết quả dương tính ở hai lần xét nghiệm RF cách nhau 3 tháng.
- Xuất hiện biểu hiện của viêm khớp thiếu niên hệ thống.
Điều trị viêm khớp thiếu niên tự phát thể viêm cột sống dính khớp
Chủ yếu sử dụng thuốc làm giảm nguy cơ phát sinh biến chứng và điều trị các triệu chứng của bệnh viêm khớp thiếu niên tự phát thể viêm cột sống dính khớp.
Những loại thuốc được sử dụng trong các giai đoạn tiến triển của bệnh gồm:
1. Giai đoạn sớm của bệnh
- Thuốc chống viêm không steroid (NSAIDs)
Thuốc chống viêm không steroid (NSAIDs) được sử dụng ở giai đoạn sớm của bệnh. Thuốc có tác dụng kiểm soát cơn đau và tình trạng viêm ở các khớp, viêm điểm bám gân ở mức độ nhẹ.
Thông thường bệnh nhân sẽ được sử dụng Naproxen hoặc Ibuprofen với liều dùng như sau:
-
- Ibuprofen: Uống 30 – 50 gram/ kg trọng lượng/ ngày.
- Naproxen: Uống 15 – 20 gram/ kg trọng lượng/ ngày.
- Corticoid
Đối với những trường hợp bị viêm, sưng và đau nặng nặng ở các khớp, Corticoid sẽ được sử dụng bằng cách tiêm vào vị trí đau. Sử dụng kết hợp với thuốc chống viêm không steroid để làm tăng hiệu quả điều trị bệnh.
Corticoid mang đến hiệu quả nhanh trong việc kiểm soát biểu hiện sưng, đau và viêm ở các khớp, khôi phục sự linh hoạt cho bệnh nhân. Tuy nhiên Corticoid có thể gây tác dụng phụ và không được sử dụng quá 3 khớp/ lần.
Liều dùng Corticoid thường giảm nhanh sau khi các triệu chứng thuyên giảm hoặc sau 2 – 4 tuần điều trị. Tiếp đến sử dụng thuốc chống viêm không steroid để thay thế trong giai đoạn tiến triển.
2. Giai đoạn tiến triển
- Prednisone
Prednisone được chỉ định cho những trường hợp không có đáp ứng với thuốc chống viêm không steroid đơn thuần, viêm khớp kéo dài từ 2 – 4 tháng hoặc bệnh tiến triển nặng (viêm dính cột sống xuất hiện sớm, viêm khớp ngoại biên tiến triển và tốc độ tăng máu cao).
Thuốc Prednisone thường được dùng với liều lượng như sau:
-
- Liều khởi đầu: Uống 1 – 2mg/ kg trọng lượng/ ngày, chia thuốc thành hai lần uống trong ngày.
- Liều duy trì: 0,5mg/ kg trọng lượng/ ngày.
- Thuốc chống thấp khớp (DMARDs)
Thuốc chống thấp khớp (DMARDs) được chỉ định với mục đích làm thay đổi diễn tiến của bệnh, phù hợp với những bệnh nhân có biểu hiện viêm dính cột sống sớm hoặc bệnh đang trong giai đoạn tiến triển nặng.
Sử dụng phối hợp Sulfasalazine với liều như sau:
-
- Liều khởi đầu: 25mg/ kg trọng lượng/ ngày, chia thuốc thành hai lần và uống trong ngày.
- Liều duy trì: Cần tăng liều khi trẻ dung nạp tốt. 50mg/ kg trọng lượng/ ngày.
Nếu Corticoid/ NSAIDs kết hợp với Sulfasalazine không đạt hiệu quả cao trong quá trình điều trị, bệnh vẫn tiến triển, bệnh nhân có thể được tăng liều dùng Sulfasalazine hoặc sử dụng một loại thuốc chống thấp khớp khác, điển hình như Methotrexat.
Methotrexat được dùng với liều nhỏ (10mg/m2), mỗi tuần uống 1 lần.
- Thuốc kháng TNF α (Etanercept) và Adalimumab (Humira)
Nếu đáp ứng kém với các trị liệu nêu trên, bệnh nhân sẽ được yêu cầu sử dụng thuốc kháng TNF α (Etanercept) kết hợp với Adalimumab (Humira). Thuốc được sử dụng với liều dùng như sau:
-
- Thuốc kháng TNF α (Etanercept): Dùng 0,4mg/ kg trọng lượng/ lần, tiêm dưới da mỗi tuần 2 lần.
- Adalimumab (Humira): Dùng 40mg/ lần, tiêm dưới da mỗi tháng 2 lần.
3. Giai đoạn lui bệnh
Trong giai đoạn lui bệnh, bệnh nhân được yêu cầu sử dụng Sulfasalazine kéo dài từ 6 tháng đến 1 năm, ngưng sử dụng thuốc chống viêm không steroid.
Bệnh nhân cần được kiểm tra sức khỏe định kỳ và theo dõi dấu hiệu tái phát khi ngưng sử dụng thuốc.
4. Tái phát
Điều trị bằng Sulfasalazine kết hợp với thuốc chống viêm không steroid trong giai đoạn lui bệnh (4 – 6 tháng) có thể đạt được sự lui bệnh kéo dài.
Khi các triệu chứng tái phát, bệnh nhân chỉ cần sử dụng lại những thuốc có hiệu quả trong giai đoạn lui bệnh là có thể kiểm soát triệu chứng.
Theo dõi và kiểm soát viêm khớp thiếu niên tự phát thể viêm cột sống dính khớp
Trong quá trình điều trị viêm khớp thiếu niên tự phát thể viêm cột sống dính khớp, bệnh nhân sẽ được yêu cầu tái khám định kỳ mỗi tháng một lần, duy trì trong nhiều năm.
Tái khám định kỳ giúp bác sĩ kiểm soát tốt bệnh lý, sớm phát hiện các triệu chứng nếu có tái phát. Đồng thời theo dõi sự tiến triển của bệnh và kiểm tra khả năng vận động của khớp sau phục hồi. Từ đó điều chỉnh hướng điều trị phù hợp.
Nếu bệnh tiến triển nặng trong thời gian dài hoặc có biểu hiện tổn thương khớp nặng, bệnh nhi sẽ được xem xét điều trị bằng thuốc sinh học phối hợp với nhóm thuốc chống thấp khớp.
Ngoài ra trong thời gian sử dụng thuốc, bệnh nhi cần được theo dõi và kịp thời xử lý khi có tác dụng phụ hoặc biến chứng do thuốc hay biến chứng do bệnh.
Viêm khớp thiếu niên tự phát thể viêm cột sống dính khớp là một thể viêm khớp tự phát thiếu niên thường gặp. Bệnh không chỉ làm ảnh hưởng đến khớp, điểm bám gân mà còn gây ra các triệu chứng toàn thân, ảnh hưởng đến sức khỏe tổng thể và khả năng vận động của bệnh.
Vì thế cần đưa trẻ đến bệnh viện và áp dụng phác đồ điều trị phù hợp để kiểm soát tốt bệnh lý, tránh viêm nhiễm kéo dài, tái phát và gây biến chứng.
Tham khảo thêm:
Trở thành người đầu tiên bình luận cho bài viết này!